Sự tích Bánh Chưng Bánh Dầy

バインチュン・バインザイ(ベトナムの昔(むかし)話(ばなし))

1

Ngày xửa ngày xưa có một vị vua tên là Hùng Vương. Do nhà vua đã già yếu nên Người muốn truyền lại ngôi vị này. Tuy nhiên nhà vua có những 20 người con trai nên Người đắn đo không biết nên nhường ngôi vị này cho ai.

2

Vào một ngày nọ nhà vua gọi 20 người con trai của mình đến và nói rằng : "Từ ngày tổ tiên của các con sáng lập lên đất nước này , ta là vua thứ 6. Rất may mắn là đất nước của chúng ta đang sống trong hoà bình. Tuy nhiên nay ta đã già yếu và chắc sẽ không còn sống được bao lâu nữa, nên ta muốn truyền lại ngôi vị này cho người con trai nào mang đến lễ vật ý nghĩa nhất và đúng với ý nguyện của ta trong lễ dâng cúng tổ tiên năm nay".

3

Sau khi nghe nhà vui nói, ai cũng mong muốn lấy được ngai vàng. Nhưng không ai đoán được mong muốn của nhà vua là gì. Các người con trai đoán rằng phải tìm của ngon vật lạ làm lễ vật cúng tổ tiên. Nên các hoàng tử lên rừng xuống biển, đi khắp nơi trên thế giới để tìm kiếm.

4

Người con trai thứ 18 tên là Lang Liêu tỏ ra rất lo lắng. Mẹ của Lang Liêu vì bệnh hiểm nghèo đã mất sớm nên chàng rất nghèo. Từ nhỏ đến lớn chàng chỉ biết làm ruộng vườn. Tuy nhiên so với các người anh em khác thì chàng rất tốt bụng và có tấm lòng nhân hậu.

5

Vào một đêm bỗng dưng Lang Liêu nằm mơ và gặp một vị thần. Vị thần nói rằng : "Trên trái đất này không có gì quý hơn hạt gạo. Dù có thật nhiều đồ ăn hiếm có đi chăng nữa thì con người không thể sống được nếu thiếu gạo. Ta khuyên con hãy chuẩn bị lễ vật từ những hạt gạo do chính tay mình vất vả làm ra để dâng lên tổ tiên".

6

Sau khi tỉnh dậy Lang Liêu nở một nụ cười vì chàng nghĩ rằng những lời vị thần nói thật là đúng. Ngay sau đó, chàng chuẩn bị gạo nếp thơm trắng tinh. Chàng cho gạo nếp phía dưới, đỗ xanh và thịt heo cho vào giữa rồi đổ thêm 1 lớp gạo nếp lên trên, sau đó chàng lấy lá dong gói lại thành một chiếc bánh hình vuông.Ngoài ra chàng còn giã cơm nếp cho nhuyễn rồi nặn thành một chiếc bánh hình tròn.

7

Ngày lễ dâng cúng tổ tiên đã đến. 20 người con trai mang rất nhiều của ngon vật lạ đến dâng cúng . Nhà vua đi quanh một vòng để xem từng lễ vật do các con trai chuẩn bị. Khi đến chỗ Lang Liêu nhà vua dừng chân lại và hỏi rằng : " Đây là cái gì?" Lang Liêu đã kể lại câu chuyện về lời khuyên của vị thần trong mơ và nói lên ý nghĩa của 2 chiếc bánh mình làm ra. Sau khi xem xong nhà vua quyết định chọn lễ vật của Lang Liêu để dâng cúng tổ tiên.

8

Sau khi dâng cúng tổ tiên xong, nhà vua chiêu gọi các đại thần đến và cùng ăn lễ vật do Lang Liêu làm. Ai cũng trầm trồ khen ngon. Sau buổi tiệc nhà vua gọi 20 người con trai của mình đến và nói rằng: "Bánh hình vuông tượng trưng cho đất nên ta đặt tên là Bánh Chưng. Bánh hình tròn tượng trưng cho bầu trời nên ta đặt tên là Bánh Dầy. Lang Liêu đã mang đến lễ vật đúng theo ý nguyện của ta nên ta sẽ nhường lại ngôi vị này cho Lang Liêu."

9

Từ đó trở đi, hàng năm cứ vào dịp Tết đến, người dân làm 2 loại bánh này để dâng cúng tổ tiên. Người ta còn nói vui với nhau rằng: " Nếu không có 2 loại bánh này thì sẽ mất đi hương vị ngày Tết". Và Bánh Chưng Bánh Dầy từ đó đã trở thành biểu tượng trong ngày Tết của dân tộc ta.

1-1

昔(むかし)むかし、フンブォンという名(な)の王(おう)さまがいました。
王(おう)さまは、年(とし)をとってきたので、王(おう)位(い)をゆずりたいと考(かんが)えました。しかし、息(むす)子(こ)が20人(にん)もいるため、だれにゆずるか悩(なや)んでいました。

2-1

ある日(ひ)、王(おう)さまは20人(にん)の息(むす)子(こ)たちを呼(よ)んで、こう言(い)いました。
「先祖(せんぞ)がこの国(くに)をつくってから、私(わたし)が6代(だい)目(め)の王(おう)となる。おかげで、我(わ)が国(くに)は今(いま)も平(へい)和(わ)な暮(く)らしができている。しかし、私(わたし)は年(とし)をとって、もう長(なが)くは生(い)きられないだろう。次(つぎ)の王(おう)位(い)をつぐのは、今(こ)年(とし)の、先祖(せんぞ)に祈(いの)りをささげる祭(まつり)で、私(わたし)の願(ねが)いどおりの物(もの)を持(も)ってきた者(もの)だ」

3-1

これを聞(き)いた兄弟(きょうだい)たちは、みんなが王(おう)位(い)につきたいと思(おも)いました。
しかし、王(おう)の願(ねが)いは何(なに)か、だれもわかりません。ただ、祭(まつり)の日(ひ)に、高(こう)級(きゅう)な珍(めずら)しい食(た)べ物(もの)を 持(も)ち寄(よ)って、競(きそ)うことだけは、わかっていました。
兄弟(きょうだい)たちは、世界中(せかいじゅう)の森(もり)や海(うみ)へ、珍(めずら)しくておいしい食(た)べ物(もの)を さがしに行(い)きました。

4-1

18番(ばん)目(め)の息(むす)子(こ)、ラン・リウは困(こま)りました。
彼(かれ)は、母(はは)親(おや)が若(わか)いころ 病気で亡(な)くなったので、とても貧(まず)しかったのです。子(こ)どものころから、米(こめ)作(づく)りや畑(はたけ)仕(し)事(ごと)しか、したことがありません。
しかし、彼(かれ)は他(ほか)の兄弟(きょうだい)とくらべて、一(いち)番(ばん) 親(しん)切(せつ)な人(ひと)でした。

5-1

ある夜(よる)、ラン・リウは夢(ゆめ)の中(なか)で、神(かみ)さまのお告(つ)げを聞(き)きました。
「天(てん)地(ち)の中(なか)で 米(こめ)より尊(とうと)い物(もの)はありません。他(ほか)に 珍(めずら)しくておいしい食(た)べ物(もの)があったとしても、人(ひと)は米(こめ)がなくては生(い)きられないのです。あなたが一生懸命(いっしょうけんめい)、育(そだ)てた米(こめ)を使(つか)って、先祖(せんぞ)への供(そな)え物(もの)にしなさい」

6-1

夢(ゆめ)からさめると、ラン・リウは思(おも)わず微笑(ほほえ)んでいました。なぜなら、神(かみ)さまの言(い)うことが正(ただ)しいと、思(おも)ったからです。すぐに、彼(かれ)は香(かお)りが良(よ)くて、真(ま)っ白(しろ)で きれいな餅(もち)米(ごめ)を取(と)り出(だ)しました。その米(こめ)に、緑(りょく)豆(とう)と豚(ぶた)肉(にく)の具(ぐ)を入(い)れて、ラーゾンと呼(よ)ばれる大(おお)きな葉(は)で包(つつ)み、四(し)角形(かっけい)にしました。さらに、餅(もち)米(ごめ)をすりつぶして練(ね)った、丸(まる)い形(かたち)の物(もの)も作(つく)りました。

7-1

いよいよ、祭(まつり)の日(ひ)。
王(おう)の息(むす)子(こ)たちは、世界中(せかいじゅう)のおいしい高(こう)級(きゅう)な食(た)べ物(もの)を 持(も)って集(あつ)まりました。
王(おう)さまは、それらをすべて見(み)てから、ラン・リウが持(も)ってきた食(た)べ物(もの)の前(まえ)で足(あし)を止(と)めて、これは何(なに)か、と聞(き)きました。ラン・リウは、夢(ゆめ)の中(なか)で神(かみ)さまから聞(き)いた話(はなし)とともに、食(た)べ物(もの)について説(せつ)明(めい)しました。すると、王(おう)さまはその食(た)べ物(もの)を選(えら)んで、お供(そな)えしました。

8-1

お祈(いの)りが終(お)わると、王(おう)さまは家来(けらい)たちといっしょに、ラン・リウが持(も)ってきた物(もの)を召(め)し上(あ)がりました。
「これは、おいしい!」皆(みな)が口(くち)々(ぐち)にほめました。
王(おう)さまは息(むす)子(こ)たちを集(あつ)めて、こう言(い)いました。
「丸(まる)い形(かたち)をした食(た)べ物(もの)は天(てん)をあらわす、バインザーイと名(な)づけよう。そして、四角(しかく)い形(かたち)をした食(た)べ物(もの)は大(だい)地(ち)をあらわす、バインチュンと名(な)づけよう。ラン・リウは、私(わたし)の願(ねが)いどおりの物(もの)を持(も)ってきてくれた。ラン・リウに王(おう)位(い)をゆずることにする」

9-1

この時(とき)から、テト(ベトナムのお正月(しょうがつ))になると、バインチュンとバインザイを作(つく)るようになりました。バインチュンとバインザイがなければ、『テトの“味(あじ)”を失(うしな)う』と言(い)われるほど、テトを代(だい)表(ひょう)する食(た)べ物(もの)となりました。

10

おくづけ
バインチュン・バインザイ(ベトナムの昔(むかし)話(ばなし))ベトナム語(ご)と日(に)本(ほん)語(ご)
文(ぶん):Kiritani Shoichiro Trần Thị Thanh Thủy
絵(え):Nguyễn Thị Ngoan
朗(ろう)読(どく): Phạm Hoàng Anh
校(こう)正(せい):Trần Thị Thanh Thủy
日(に)本(ほん)語(ご)朗(ろう)読(どく):塚(つか)崎(さき)美(み)津(つ)子(こ)
企(き)画(かく):一(いっ)般(ぱん)社(しゃ)団(だん)法(ほう)人(じん)大(おお)阪(さか)ベトナム友好(ゆうこう)協(きょう)会(かい)
制(せい)作(さく):多(た)言(げん)語(ご)絵(え)本(ほん)の会(かい)RAINBOW

11

"Tác phẩm này không được bán, điều chỉnh hoặc sửa đổi."
この作(さく)品(ひん)は、販(はん)売(ばい)、改(かい)作(さく)、改(かい)変(へん)できません。